Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014

Đến vàng cũng tối đen thế đấy

Peter von Matt

Lời người dịch: Tẩu khúc tử thần, bài thơ nổi tiếng của Paul Celan, được kiến thiết như một thể thức tẩu khúc (Fuge/fugue) trong âm nhạc, ở đó hợp ca với mật ngữ mang tính nghịch lý „sữa đen của buổi ban mai“ thế vào chỗ các nhạc cụ, giàn hợp xướng khác nhau trong nhạc, lặp lại cùng một tiết điệu với một chút biến thể gợi về những sự kiện đau thương, tuy không nêu lên một cách cụ thể. Câu then chốt: „ Tử thần là lão trùm nghề người Đức“ đã đi vào tiếng nói thông dụng như một thành ngữ trong tiếng Đức (chữ „Meister/master“ có nghĩa là bậc thầy, thợ cả, trùm nghề, tùy theo ngữ cảnh). Triết gia Theodor W. Adorno (1) nói một câu gây chấn động: „Còn viết một bài thơ sau Auschwitz, là man rợ“. Trong bối cảnh của câu nói đó, nhiều nhà phê bình trách cứ Celan, rằng vẻ đẹp của tạo tác thi ca không tương xứng với chủ đề tàn sát người Do thái. Tuy nhiên với thời gian, bài thơ, trở thành một bài thơ quan trọng nhất của dòng thơ về cuộc Tận thiêu (Holocaust) tưởng niệm những nạn nhân của cuộc diệt chủng, đã được công nhận và có vị trí xứng đáng trong văn chương hiện đại và hậu hiện đại. (P.K.Đ)

Một vần duy nhất! Nó mắc lại trong bài thơ như viên đạn găm trong người bị bắn chết! Vần là viên đạn được nó nói tới, xoàng xĩnh vậy như cái vật bằng chì nhỏ xíu, nhưng cũng lại được chế tạo mới sao chuẩn xác. Nó cho sự phục vụ hoàn hảo. Nó kết vần, như giết hại, giết hại tới ngàn lần, như từng đã ngàn lần kết vần: thô tục, trơn truội, chính xác. Đồng thời từ mang vận nói về hành động của vần mà nó đang hoàn tất. „ Mắt hắn màu xanh/ bắn trúng anh“. Một cách xám xịt, thường lệ của thơ tương giao với cái thường lệ của sự giết người.

Cái vần duy nhất này trong một bài thơ dài! Nó thuộc về những câu đố của văn bản, bên cạnh „sữa đen“ và „ trùm nghề đến từ nước Đức“. Điều gì đặng cắt nghĩa được cho vần này, tất phải làm mọi thứ khác rõ nghĩa hơn. Liệu nó có trình diện cái „vần thơ Đức“ nọ được nói tới trong một bài thơ khác từ những năm tháng ấy. Có thể nghĩ như vậy, bởi „mắt xanh“ hiện diện cho Đức cũng như „tóc tro“ hiện diện cho người Do thái. Nếu vậy thì đồng thời ở đây có một lời phán xử được tuyên bố về bài thơ Đức. Rồi kế đó ở đây buông một lời khủng khiếp về tất cả những gì cho ta cảm nhận đó là lời nói Đức.

Chính những câu thơ khác nọ nói về cái vần thơ Đức („Gần những nấm mồ“) (2) chỉ ra rằng không hề đơn giản như vậy. Đó là những câu thơ gửi người mẹ bị sát hại. Lặng lẽ và than khóc, chúng nói chuyện với người mẹ bị chôn ở vùng Bug sông nước xa xôi và kết đoạn:“ Và mẹ ơi mẹ còn dung thứ/ như khi xưa, vâng, dạo ở nhà/ vần thơ Đức êm ru, đau đớn?“. Người mẹ của Celan yêu cuồng nhiệt những nhà thơ Đức, bà đã trao chuyển tiếp tình yêu này cho đứa con trai, và hồi xưa ấy cả hai mẹ con đã từng thi nhau xem ai trích ngâm những áng thơ đẹp. Bây giờ mẹ còn chịu đựng nổi nữa không, những câu thơ muốn hỏi, mẹ,  người bị bắn chết rồi, giờ đây một trong cơ man người đã chết? Nhưng trong kiểu cách hỏi đã tiềm ẩn sẵn câu trả lời: cái vần thơ êm ru, đớn đau, cái vần Đức tự nó ở đây lại họa vần với cái „ở nhà“ buồn rầu, như âm thanh và loan báo lại không là thành phần của cái rùng rợn và độc ác, mà là địa điểm của nơi trốn chạy cuối cùng. Trong điệu thức rợn hồn ma quỷ, vần trở thành một trường liên kết với người đã chết, và hồ như người ta có thể đọc lên câu hỏi như một lời cầu khẩn: Mẹ còn cam chịu vần thơ ấy nơi con trai, ơi mẹ.

Từ đây mới có một lối tiếp cận cái nghịch lý làm nền tảng của bài thơ, khiến nó bung ra một ma lực ngôn ngữ ngấu nghiến, cuồng điên để nói về tội ác tột cùng nhất. Ở đây những âm thanh mê luyến nhất của thơ ca Đức đan quyện vào nhau, ca hát mê hoặc của Lorelei (3),  sự yểu điệu gây nghiện trong khúc ca nơi viên hạ sĩ cầm cờ của Rilke (4), sự vĩ đại hai mặt tối sáng của George (5), nhưng rồi tất cả biến nhập vào một bài hát không hồi kết, cứ như có một người chơi vĩ cầm điên loạn luôn luôn tấu lên trước, thường xuyên một chùm âm giống nhau đan xen và kế tiếp theo nhau, một người chơi vĩ cầm như thời Chagall (6) xưa: Ahasver (7) như là kẻ đàn rong.

Rằng bài thơ ban đầu tên là „Khúc tăng gô của thần chết“, kể cũng dễ hiểu. Thậm chí nó có thể tên là „Bolero“ (8) cũng được. Cấu trúc của một bản tẩu khúc cho phép minh chứng một cách chuẩn xác như thế, thì hiệu tác Bolero ở đây rõ rệt hơn – vâng cũng như ở các vũ điệu gọi hồn người chết thời cổ, được từ „tăng gô thần chết“ hòa vào âm sắc, tử thần hình như không tấu lên hợp xướng, mà chơi những khúc vĩ cầm nhớp nhúa rợn nổi da gà.

Từ „trùm nghề“ ám chỉ tất cả những gì nền nghệ thuật xưa  từng ngự trên nước Đức và ngọt ngào và sinh ra đẹp như trong mộng. Và trong nhịp điệu tương tự điều đó hướng chỉ vào cuộc diệt chủng, sự giết hại kê đơn. Cả hai thứ nhập vào nhau, không thể tách: „hãy tấu ngọt ngào hơn khúc thần chết...vuốt dây tối âm hơn ở cây vĩ cầm“. Tuy vậy bài thơ không buông lời phán xử về cái vẻ đẹp nọ. Nó làm điều khó hơn, nó chịu đựng qua cái nghịch lý – người ta có thể gọi đó là điên rồ hay là thơ. Trong cái nghịch lý thô thiển của hai chữ đầu hiển lộ những gì làm nên thể trạng của cái toàn thể. Người mẹ và tiếng Đức và cái vần thơ Đức là một thứ - thức ăn của buổi ban mai. Bây giờ cái đó đã chết hẳn và tuy nhiên hoàn toàn sinh động: chết như người đàn bà bị bắn chết, như vần thơ duy nhất khủng khiếp, sống như tình yêu của đứa con trai, như sự làm thơ bị khóa mạch của cậu - dòng sữa đen.

© Phạm Kỳ Đăng dịch – Bài đăng trên Văn hóa Nghệ An

Nguồn: Hundert Gedichte des Jahrhunderts. Mit Interpretationen. Ausgewählt von Marcel Reich-Ranicki, Insel Verlag Frankfurt am Main und Leipzig 2000, (Một trăm bài thơ thế kỷ kèm bình giảng. Marcel Reich-Ranicki tuyển chọn, Nhà xuất bản Insel Verlag Frankfurt am Main và Leipzig 2000).

Tẩu khúc tử thần   

Paul Celan (1920-1970) 

Sữa đen buổi ban mai chiều chiều ta uống
ta uống từng sáng, trưa, ta uống đêm đêm
ta uống, uống triền miên
trong không khí ta đào mồ, cho người nằm không chật chỗ
Một gã sống trong nhà, gã chơi cùng bầy rắn
gã viết, gã viết gửi về nước Đức khi tối trời
tóc em vàng Margarete
gã viết vậy và bước ra trước nhà lóe ánh sao sa,
gã huýt đàn chó xô ra
gã huýt người Do thái của gã bước lên hàng
xúc mồ trên mặt đất
gã ra lệnh cho chúng ta giờ nổi nhạc lên nhảy múa.

 

Sữa đen buổi ban mai đêm đêm ta uống
Ta uống mi từng sáng, trưa, ta uống đêm đêm
Ta uống, uống triền miên
Gã sống trong nhà gã chơi cùng bầy rắn
gã viết, gã viết gửi về nước Đức khi tối trời
tóc em vàng Margarete
Tóc em hóa tro, Sulamith, trong tầng thinh không ta đào mồ
cho người nằm không chật chỗ.

 

Gã réo gọi xắn sâu hơn vào lòng đất hát lên và tấu chơi bọn tôi bọn anh
Gã quờ dùi dắt đai lưng, gã huơ lên, mắt gã màu xanh
Xắn thuổng sâu hơn cho nhau lũ bay tiếp lên nào nổi nhạc lên nhảy múa.

 

Sữa đen buổi ban mai ta uống mi từng đêm tối
Ta uống mi từng sáng, trưa, ta uống đêm đêm
Ta uống, uống triền miên
Một gã sống trong nhà tóc em vàng Margarete tóc em ra tro Sulamith,
gã chơi đùa cùng bầy rắn.
Gã réo gọi tấu khúc tử thần lâm ly hơn - Tử thần gã trùm nghề người Đức
Gã réo gọi, ve vuốt vĩ cầm âm u, kế đến lúc lũ các anh bốc lên như khói
Kế đó các anh có mộ phần tận trên mây, cho người nằm không chật chỗ.

 

Sữa đen buổi ban mai đêm đêm ta uống
Ta uống mi từng buổi trưa, tử thần là gã trùm nghề người Đức
Ta uống mi đêm đêm và sáng ngày ta uống, uống triền miên
Tử thần gã trùm nghề người Đức mắt gã xanh
với viên đạn chì bắn anh, bắn trúng anh
Một gã sống trong nhà, tóc em vàng Margarete
Gã xuỵt bầy chó săn rượt đuổi ta, gã tặng ta một huyệt mồ trong không khí
Gã chơi cùng bầy rắn và mộng mơ - Tử thần là một gã trùm nghề người Đức

Tóc em vàng Margarete,
tóc em ra tro Sulamith.

 

© Phạm Kỳ Đăng dịch
từ nguyên tác tiếng Đức:
   

Todesfuge
 

Paul Celan (1920-1970)
 

Schwarze Milch der Frühe wir trinken sie abends
wir trinken sie mittags und morgens wir trinken sie nachts
wir trinken und trinken
wir schaufeln ein Grab in den Lüften da liegt man nicht eng
Ein Mann wohnt im Haus der spielt mit den Schlangen der schreibt
der schreibt wenn es dunkelt nach Deutschland dein goldenes Haar Margarete
er schreibt es und tritt vor das Haus und es blitzen die Sterne er pfeift seine Rüden herbei
er pfeift seine Juden hervor läßt schaufeln ein Grab in der Erde
er befiehlt uns spielt auf nun zum Tanz

 

Schwarze Milch der Frühe wir trinken dich nachts
wir trinken dich morgens und mittags wir trinken dich abends
wir trinken und trinken
Ein Mann wohnt im Haus der spielt mit den Schlangen der schreibt
der schreibt wenn es dunkelt nach Deutschland dein goldenes Haar Margarete
Dein aschenes Haar Sulamith wir schaufeln ein Grab in den Lüften da liegt man nicht eng

 

Er ruft stecht tiefer ins Erdreich ihr einen ihr andern singet und spielt
er greift nach dem Eisen im Gurt er schwingts seine Augen sind blau
stecht tiefer die Spaten ihr einen ihr andern spielt weiter zum Tanz auf

 

Schwarze Milch der Frühe wir trinken dich nachts
wir trinken dich mittags und morgens wir trinken dich abends
wir trinken und trinken
ein Mann wohnt im Haus dein goldenes Haar Margarete
dein aschenes Haar Sulamith er spielt mit den Schlangen
Er ruft spielt süßer den Tod der Tod ist ein Meister aus Deutschland
er ruft streicht dunkler die Geigen dann steigt ihr als Rauch in die Luft
dann habt ihr ein Grab in den Wolken da liegt man nicht eng

 

Schwarze Milch der Frühe wir trinken dich nachts
wir trinken dich mittags der Tod ist ein Meister aus Deutschland
wir trinken dich abends und morgens wir trinken und trinken
der Tod ist ein Meister aus Deutschland sein Auge ist blau
er trifft dich mit bleierner Kugel er trifft dich genau
ein Mann wohnt im Haus dein goldenes Haar Margarete
er hetzt seine Rüden auf uns er schenkt uns ein Grab in der Luft
er spielt mit den Schlangen und träumet der Tod ist ein Meister aus Deutschland

dein goldenes Haar Margarete
dein aschenes Haar Sulamith.

 
Bản tiếng Anh:

Deathfugue

Paul Celan (1920-1970)

(Translated by A.Z. Foreman)

Black milk of daybreak we drink it come evening
we drink it come midday come morning we drink it come night
we drink it and drink it
we spade out a grave in the air there it won't feel so tight
A man lives at home who plays with the vipers he writes
he writes in the German-born nightfall
the gold of your hair Margarete
he writes it and steps out of doors and the stars are aglitter he whistles his hounds out
he whistles his Jews off has them spade out a grave in the ground
he orders us play up for the dance
 

Black milk of daybreak we drink you come night
we drink you come midday come morning we drink you come evening
we drink you and drink you
A man lives at home who plays with the vipers he writes
he writes in the German-born nightfall the gold of your hair Margarete
the ash of your hair Shulamith we spade out a grave in the air there it won't feel so tight

He yells you there dig deeper and you there sing and play
He grabs the nightstick at his belt and swings it his eyes are so blue
You there dig deeper and you there play loud for the dance

Black milk of daybreak we drink you come night
We drink you come midday come morning we drink you come evening
We drink you and drink you
a man lives at home the gold of your hair Margarete
the ash of your hair Shulamith he plays with the vipers
he yells play sweeter for death Death is a German-born master
yells scrape the strings darker you'll rise through the air like smoke
and have a grave in the clouds there it won't feel so tight
 

Black milk of daybreak we drink you come night
we drink you come midday Death is a German-born master
We drink you come evening come morning we drink you and drink you
Death is a German-born master his eye is so blue
He shoots with lead bullets he shoots you his aim is so true
a man lives at home the gold of your hair Margarete
he lets his hounds loose on us grants us a grave in the air
he plays with his vipers and dreams a dream Death is a German-born master
The gold of your hair Margarete
The ash of your hair Shulamith.

Chú thích của người dịch:

Paul Celan  (Paul Antschel, 1920-1970): Nhà thơ viết tiếng Đức, gốc Do thái. *Sinh tại Czernowitz, Bucovina, tỉnh lỵ của đế quốc Áo-Hung, thời còn trực thuộc Romania, nay thuộc về Ukraine * 1937- 1939: Học nghề Y tại Tours, Pháp* 1941-1945: Chạy trốn, bị cầm tù trong trại tập trung. Cha mẹ ông bị áp giải vào trại tập trung ở Transnistria, nơi cha ông chết vì thương hàn và mẹ ông bị bắn chết *Sau 1945: Làm phiên dịch trong nhà xuất bản ở Bukarest sau Thế chiến II *Năm 1947 di cư qua Vienna, sau sang Paris 1948 *Tại đây Paul Celan nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn chương, giảng tiếng Đức tại Écolo Normale Supérieure. 1970: Tự sát, gieo mình xuống sông Seine sau chuyến thăm Israel vào tháng Mười năm 1969.

Peter von Matt  (sinh năm 1937): Nhà ngữ văn Đức và nhà văn người Thụy Sĩ. Là giáo sư ngành Văn chương Đức thời mới, ông giảng dậy từ 1976-2002 tại trường Tổng hợp Zürich. Năm 1980 ông làm giáo sư thỉnh giảng tại Stanfort University, 1992/ 1993 được bầu làm thành viên của Viện nghiên cứu liên ngành Berlin (Wissenschaftskolleg Berlin). Peter von Matt là viện sĩ của ba viện hàn lâm.

(1) Theodor W. Adornor (1903-1969): Nhà triết học, xã hội học, nhà lý thuyết âm nhạc và soạn nhạc. Adorno gây ảnh hưởng bởi tư duy phê phán xã hội. Cùng với Max Horkheimer, Adornor thuộc về các đại diện chính của Trường phái Frankfurt và Lý thuyết phê phán.

(2) Tên một bài thơ của Paul Celan (Nähe der Gräber- Gần những nấm mồ), nhắc tới vùng Bug, con sông biên giới chảy giữa Ba lan, Bạch Nga và Ukraine, với hai câu kết được trích trong bài.

(3) Nàng Lorelei: Tên một bài thơ của thi hào Đức Heinrich Heine (1797-1856).

(4)  Điệu ca về tình yêu và cái chết của người lính cầm cờ Christoph Rilke (Die Weise von Liebe und Tod des Cornets Christoph Rilke): Tên một truyện ngắn của Rainer Maria Rilke (1875-1926) - nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương tiếng Đức. 

(5) Stefan George(1868-1933): Nhà thơ lớn người Đức, ban đầu chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, sau chủ trường dòng thơ thuần mỹ “ nghệ thuật vị nghệ thuật” quảng bá trong Tờ Nghệ thuật, rồi sau dần xa lánh, cuối cùng bản thân ông trở thành tâm điểm của một nhóm thơ có quan niệm thẩm mĩ- triết học riêng mang tên mình, “Nhóm George”.

(6) Marc Chagall (1887-1985): Họa sĩ Nga-Xô viết lưu vong gốc Do thái, một trong những họa sĩ quan trọng nhất của thế kỷ 20. Có tác phẩm được xếp vào chủ nghĩa biểu hiện, ông đi vào lịch sử hội họa như một nhà thơ - họa sĩ.

(7) Ám chỉ người Do thái tha hương. Cuốn sách Truyền thuyết dân gian về người Do thái vĩnh viễn in năm 1602 đề cập tới một người Do thái và cấp cho nhân vật cái tên Ahasveros

(8) Ban đầu là một điệu nhảy dân tộc của Tây Ban Nha, sau lan khắp châu Mỹ La Tinh, Bolero cũng là tên tác phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Pháp Maurice Ravel.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Làm gì đây với Pushkin

Marcel Reich-Ranicki        Mới đây ông hứa nói cho chúng tôi nghe ít nhiều về Pushkin và Chekhov. Chúng tôi chờ đấy. Heinz Bode từ Leipzig ...